CÁC PHƯƠNG PHÁP HÀNH TRỊ VÀ TU TẬP
Thứ Bảy, 28 tháng 9, 2013
Chủ Nhật, 14 tháng 7, 2013
PHÓNG SANH PHẢI BIẾT CÁCH
Thả chim phóng sinh là
một việc thiện và dễ làm, nhưng chính hành động đó đã tiếp tay cho đội
quân chuyên đi săn lùng bắt các loại chim vào những dịp lễ, vô tình tiếp
tay cho những người đi đánh bắt gây thêm nghiệp sát.
Phóng sinh là một nét đẹp trong
các lễ hội của người Việt, nó có ý nghĩa và mang lại phước báu to lớn
nhưng phóng sinh phải biết cách.
Vào những dịp Tết, rằm tháng Giêng, rằm tháng Bảy hay những dịp cầu nguyện cho bản thân hay gia quyến, người ta hay tổ chức phóng sinh chim, cá. Phóng sinh là một việc làm thể hiện lòng Từ bi bình đẳng, mục đích phóng sinh là để đánh thức tâm Bồ đề của chúng sinh (con vật) trước khi phóng sinh. Phóng sinh là thể hiện lòng từ bị của người con Phật, tâm không mong cầu lợi ích cho riêng bản thân mình nhưng phước báu lại to lớn vô cùng.
Vào những dịp Tết, rằm tháng Giêng, rằm tháng Bảy hay những dịp cầu nguyện cho bản thân hay gia quyến, người ta hay tổ chức phóng sinh chim, cá. Phóng sinh là một việc làm thể hiện lòng Từ bi bình đẳng, mục đích phóng sinh là để đánh thức tâm Bồ đề của chúng sinh (con vật) trước khi phóng sinh. Phóng sinh là thể hiện lòng từ bị của người con Phật, tâm không mong cầu lợi ích cho riêng bản thân mình nhưng phước báu lại to lớn vô cùng.
Tuy nhiên, việc làm tốt đẹp này đang ngày càng mất đi nét đẹp. Thả chim phóng sinh
là một việc thiện và dễ làm, nhưng chính hành động đó đã tiếp tay cho
đội quân chuyên đi săn lùng bắt các loại chim vào những dịp lễ, vô tình
tiếp tay cho những người đi đánh bắt gây thêm nghiệp sát. Để có được một
con đến tay người thả, ắt sẽ có nhiều con bị chết vì mệt mỏi, bệnh tật.
Việc phóng sinh không đúng cách còn có thể gây những tác động không tốt
đối với môi trường sống trong vùng. Vậy, chúng ta phóng sinh thế nào
cho đúng?
Phóng sinh là khi gặp một con vật bị nạn, mình ra tay cứu thoát, hoặc nhìn thấy một hoặc nhiều con vật sắp bị giết, mình bỏ tiền ra mua để cứu sống chúng. Người học Phật tăng trưởng lòng từ bi là điều rất cần thiết nhưng từ bi phải có trí tuệ. Ở góc độ tương đối, khi thực hiện phóng sinh, chúng ta có thể hành theo ý nghĩa sau:
- Phóng sinh phải phát xuất từ lòng từ
bi, không vì ý nghĩa tư lợi (như cầu sống thọ, cầu may mắn, giải trừ
tật bệnh,…). Vì nếu không như vậy, việc phóng sinh tuy có tốt, nhưng
hiệu quả lại rất hạn chế. Tâm từ bi không khởi sinh, còn nói gì đến
chuyện nuôi dưỡng!
- Phóng sinh bằng cái tâm chứ đừng theo phong trào, làm việc bằng chánh kiến chứ không chạy theo số đông.
- Phóng sinh
là tự do, không phân lượng lớn nhỏ, ít nhiều, không chọn ngày giờ tốt
xấu, không nên chờ dịp này hay dịp khác,…. Vì các loại lươn, cá, ốc, thú
rừng,… bị săn bắt phục vụ cho người ăn thịt lúc nào, ngày nào cũng có;
mà thời lượng nào thì sự nguy cấp cũng đều như nhau. Nên khi ta phát tâm
từ bi thì liền thực hiện - tùy vào khả năng từ một, hai con đến muôn
ngàn con cũng phải lập tức cứu thoát chúng – càng nhanh càng tốt, mà
chẳng cầu được ai biết đến.
- Khi phóng sinh cần thực hiện âm
thầm, chọn nơi vắng vẻ càng tốt, vì pháp sự này không nên kích thích
lòng tham của những người săn bắt, tạo thêm nghiệp chướng cho họ mà
chính chúng ta cũng bị giảm phần công đức.
- Phóng sinh là cơ hội để con vật có
điều kiện quy y Tam Bảo và sám hối nghiệp chướng, việc làm tốt trong Đạo
Phật, thể hiện lòng Đại từ Đại bi nên trong nghi thức phóng sinh có lễ
quy y, sám hối cho con vật trước khi phóng sinh. Nhưng chúng ta cũng
không nên quá chấp vào hình thức, tiến hành những nghi lễ rườm rà, câu
nệ. Khi phóng sinh, thao tác phải nhanh nhẹn, rốt ráo; nghi lễ ngắn gọn
nhưng đủ sức tế độ; không nên nặng phần hình thức, tránh cho các sinh
vật phải chịu kéo dài nỗi khổ sợ hãi, ngột ngạt, tù túng vì bị giam cầm;
có khi chúng phải mất mạng trước khi được ta phóng thích.
Nếu không xem được tại trang này, quý bạn có thể xem tại đây:
https://www.youtube.com/watch?v=5G5X3B9GAgc&t=416s
Chủ Nhật, 7 tháng 7, 2013
Thứ Bảy, 6 tháng 7, 2013
BƯỚC ĐẦU VÀO ĐẠO NÊN BIẾT
Bạn là người mới bước chân vào đạo nên học và nghe bài giảng này. Đây cũng như là cơ sở, nền móng cho tất cả những bài giảng khác ở trình độ cao hơn. nếu bạn không nghe, không hiệu những điều cơ bản này, thì việc tu tập của bạn giống như không có mục đích, không có điểm đến. Vậy bạn, đã chuẩn bị cho mình được gì, bạn đã có được những hiểu biết gì khi bước vào đạo, bạn sẽ đi con đường nào, cách thức để đi đến như thế nào? bạn hãy bỏ chút thời gian, nghe bài giảng này thật kỹ, nghe đi nghe lại nhiều lần. Mong rằng bạn sẽ có nền móng cho sự tu tập của bản thân và có sự giác ngộ một con đường đạo.
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT!
(Bấm vào để xem video: http://www.youtube.com/watch?v=8Gu3SDEfyms do Đại đức Thích Trí Huệ giảng)
Bước đầu vào đạo, bạn có thể xem thêm ở đây:
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT!
(Bấm vào để xem video: http://www.youtube.com/watch?v=8Gu3SDEfyms do Đại đức Thích Trí Huệ giảng)
Bước đầu vào đạo, bạn có thể xem thêm ở đây:
Thứ Hai, 11 tháng 3, 2013
Thứ Tư, 6 tháng 3, 2013
LÀM CHỦ VỌNG NGHIỆP- ĐẠI ĐỨC THÍCH TRÍ HUỆ GIẢNG
LÀM CHỦ VỌNG NGHIỆP
Một sự chủ tâm tác ý ,một ý định của bản thân sẽ đưa đến một hành động, Nếu tác ý Thiện sẽ đưa đến một hành động đúng và đưa đến quả báo tốt đẹp, nếu tác ý ác sẽ đưa đến một hành động sai và đưa đến quả báo xấu, hai quả báo nầy đều gọi chung là Nghiệp. Khi chưa thấu hiểu chân lý nên chúng ta tạo nghiệp trong quá khứ thì hiện nay nó sẽ dẫn ta vào sự si mê, sân hận ,gây ra bao đau khổ, phiền não......
-Đức Phật dạy rằng ta là chủ nhân của chính mình, tất cả mọi hạnh phúc hay khổ đau đều bắt nguồn từ hành động đạo đức hay thất đức. Vậy cho nên khi chúng ta tu tập tức là dừng được nghiệp quá khứ,tránh xa những nghiệp dữ do thân khẩu ý gảy ra mà khởi lên nghiệp thiện, tu tập hành thiện làm các công đức,sám hối những lỗi lầm đã phạm , chí thành cúng dường Tam Bảo, hồi hướng tất cả những công đức thiện nghiệp đến tất cả chúng sinh hữu tình,là ta đã tránh dần được nghiệp quả xấu mà chuyển dần thành nghiệp thiện lành,đây cũng là trọng tâm của đạo Phật.
Trong Kinh sách Đức Phật có dạy:" Tam Nghiệp hằng thanh tịnh,Đồng Phật vãng Tây Phương". Vậy là khi nào ba nghiệp thân,khẩu, ý của chúng ta thanh tịnh,lặng yên,trong sáng, không còn tham,sân,si thì đó là cái nhân sẽ đưa chúng ta sẽ cùng chư Phật về cõi Tây Phương sau nầy.Đến khi rõ mọi lý lẽ ,mọi tội lỗi đều tiêu trừ,lúc ấy sẽ thấy mọi thứ là không,không có tội để tiêu trừ,không có nghiệp để mà tạo tác,không có nghiệp tạo thì không bị nghiệp chi phối,vậy là chúng ta đã làm chủ được nghiệp của chính mình,thân tâm thường lạc mà an nhiên tu tập đến ngày vãng sanh Tây Phương Cực Lạc.
A DI ĐÀ PHẬT.
Một sự chủ tâm tác ý ,một ý định của bản thân sẽ đưa đến một hành động, Nếu tác ý Thiện sẽ đưa đến một hành động đúng và đưa đến quả báo tốt đẹp, nếu tác ý ác sẽ đưa đến một hành động sai và đưa đến quả báo xấu, hai quả báo nầy đều gọi chung là Nghiệp. Khi chưa thấu hiểu chân lý nên chúng ta tạo nghiệp trong quá khứ thì hiện nay nó sẽ dẫn ta vào sự si mê, sân hận ,gây ra bao đau khổ, phiền não......
-Đức Phật dạy rằng ta là chủ nhân của chính mình, tất cả mọi hạnh phúc hay khổ đau đều bắt nguồn từ hành động đạo đức hay thất đức. Vậy cho nên khi chúng ta tu tập tức là dừng được nghiệp quá khứ,tránh xa những nghiệp dữ do thân khẩu ý gảy ra mà khởi lên nghiệp thiện, tu tập hành thiện làm các công đức,sám hối những lỗi lầm đã phạm , chí thành cúng dường Tam Bảo, hồi hướng tất cả những công đức thiện nghiệp đến tất cả chúng sinh hữu tình,là ta đã tránh dần được nghiệp quả xấu mà chuyển dần thành nghiệp thiện lành,đây cũng là trọng tâm của đạo Phật.
Trong Kinh sách Đức Phật có dạy:" Tam Nghiệp hằng thanh tịnh,Đồng Phật vãng Tây Phương". Vậy là khi nào ba nghiệp thân,khẩu, ý của chúng ta thanh tịnh,lặng yên,trong sáng, không còn tham,sân,si thì đó là cái nhân sẽ đưa chúng ta sẽ cùng chư Phật về cõi Tây Phương sau nầy.Đến khi rõ mọi lý lẽ ,mọi tội lỗi đều tiêu trừ,lúc ấy sẽ thấy mọi thứ là không,không có tội để tiêu trừ,không có nghiệp để mà tạo tác,không có nghiệp tạo thì không bị nghiệp chi phối,vậy là chúng ta đã làm chủ được nghiệp của chính mình,thân tâm thường lạc mà an nhiên tu tập đến ngày vãng sanh Tây Phương Cực Lạc.
A DI ĐÀ PHẬT.
Thứ Ba, 5 tháng 3, 2013
NGHIỆP BÁO VÀ NHÂN QUẢ - ĐẠI ĐỨC THÍCH TRÍ HUỆ GIẢNG
NGHIỆP BÁO VÀ NHÂN QUẢ
Trên cơ sở lấy Tâm làm gốc. Nhân Quả Luân Hồi là nền tảng ,Đạo Phật đã chỉ rõ trải qua tiến trình ngũ uẩn ý chí hành động sẽ tạo thành nghiệp ác hay thiện,tất cả đều xuất phát từ tam nghiệp Thân, Khẩu,Ý (Ba nghiệp do hành động của mình, do lời nói của mình, do suy nghĩ của mình) tùy theo nghiệp lực và tội báo, trí huệ cùng sắc thân mà mọi chúng sinh có hình hài, tánh tình, sự thấy biết khác nhau. Do đó, chính bản thân phải chịu trách nhiệm về vận mệnh của mình.
Không tránh được nghiệp quả ác thì cần phải đối diện,muốn cứu lấy bản thân thì phải học Phật để hiểu rõ Nhân Quả và Nghiệp,tu tập Tâm vô niệm, quay lại Chân Tâm tự tánh sẽ thấy được thân xác ngũ uẩn hiện tại là do những chủng tử của nghiệp từ nhiều đời quá khứ khi hội đủ nhân duyên đã tạo thành. Khi đã thấu hiểu Nhân quả và nghiệp lực từ Thân, Khẩu, Ý thì phải tu tập tam nghiệp thanh tịnh,sám hối tội lỗi đã gây, tránh xa tác ý hành động xấu rồi phải thọ lãnh quả báo khổ trong tương lai, bởi một vọng niệm cũng có thể đưa chúng sinh trầm luân trong muôn kiếp khó mà ra khỏi lục đạo luân hồi đầy phiền não, đau khổ ....
Mục đích học Phật là để khai mở trí tuệ,hướng đến sự giải thoát, Đức Phật dạy trong Kinh Niệm Phật Ba La Mật:"Nếu có chúng sinh nào chí thành xưng niệm danh hiệu: Nam Mô A Di Đà Phật thì uy lực bất khả tư nghì (không thể nghĩ bàn) của danh hiệu khiến cho Tâm-Thể-Thanh-Tịnh mà chúng sinh ấy không hề hay biết,tự nhiên chứng nhập Sơ-Phần-Pháp-Thân,âm thầm ứng hợp với Bi-Trí-Trang-Nghiêm của Chư Phật..." Hành giả niệm câu Phật Hiệu :Nam Mô A Di Đà Phật mà dừng lại tác ý xấu, không chấp tướng, không động tâm, chuyên tâm đến cực điểm (gọi là Thiền Định) sẽ đạt được niệm Phật Tam Muội, đây là Nhân đã gieo để sau nầy chứng quả nơi Tây Phương Cực Lạc.
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT.
Trên cơ sở lấy Tâm làm gốc. Nhân Quả Luân Hồi là nền tảng ,Đạo Phật đã chỉ rõ trải qua tiến trình ngũ uẩn ý chí hành động sẽ tạo thành nghiệp ác hay thiện,tất cả đều xuất phát từ tam nghiệp Thân, Khẩu,Ý (Ba nghiệp do hành động của mình, do lời nói của mình, do suy nghĩ của mình) tùy theo nghiệp lực và tội báo, trí huệ cùng sắc thân mà mọi chúng sinh có hình hài, tánh tình, sự thấy biết khác nhau. Do đó, chính bản thân phải chịu trách nhiệm về vận mệnh của mình.
Không tránh được nghiệp quả ác thì cần phải đối diện,muốn cứu lấy bản thân thì phải học Phật để hiểu rõ Nhân Quả và Nghiệp,tu tập Tâm vô niệm, quay lại Chân Tâm tự tánh sẽ thấy được thân xác ngũ uẩn hiện tại là do những chủng tử của nghiệp từ nhiều đời quá khứ khi hội đủ nhân duyên đã tạo thành. Khi đã thấu hiểu Nhân quả và nghiệp lực từ Thân, Khẩu, Ý thì phải tu tập tam nghiệp thanh tịnh,sám hối tội lỗi đã gây, tránh xa tác ý hành động xấu rồi phải thọ lãnh quả báo khổ trong tương lai, bởi một vọng niệm cũng có thể đưa chúng sinh trầm luân trong muôn kiếp khó mà ra khỏi lục đạo luân hồi đầy phiền não, đau khổ ....
Mục đích học Phật là để khai mở trí tuệ,hướng đến sự giải thoát, Đức Phật dạy trong Kinh Niệm Phật Ba La Mật:"Nếu có chúng sinh nào chí thành xưng niệm danh hiệu: Nam Mô A Di Đà Phật thì uy lực bất khả tư nghì (không thể nghĩ bàn) của danh hiệu khiến cho Tâm-Thể-Thanh-Tịnh mà chúng sinh ấy không hề hay biết,tự nhiên chứng nhập Sơ-Phần-Pháp-Thân,âm thầm ứng hợp với Bi-Trí-Trang-Nghiêm của Chư Phật..." Hành giả niệm câu Phật Hiệu :Nam Mô A Di Đà Phật mà dừng lại tác ý xấu, không chấp tướng, không động tâm, chuyên tâm đến cực điểm (gọi là Thiền Định) sẽ đạt được niệm Phật Tam Muội, đây là Nhân đã gieo để sau nầy chứng quả nơi Tây Phương Cực Lạc.
NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT.
CHÍN ĐÓA SEN DÂNG ĐỨC PHẬT A DI ĐÀ - ĐẠI ĐỨC THÍCH TRÍ HUỆ GIẢNG
CHÍN ĐÓA SEN DÂNG ĐỨC PHẬT A DI ĐÀ
Đức Phật dạy người Phật tử làm bất cứ việc gì phải hiểu ý nghĩa và tương ưng với Tánh giác,phải giữ tâm được tịnh cũng như vật phẩm cúng dường,Vì Phật là bậc giác ngộ,nên khi cúng Phật phải thành tâm,giữ chánh niệm như vậy mới có an lạc trong tâm mà dâng lên Đức Phật.
- Đức Phật A Di Đà là giáo chủ của thế giới Tây Phương Cực Lạc, với 48 lời đại nguyện muốn độ khắp chúng sanh đều đạt tới Niết Bàn. Với lòng Từ bi vô lượng công đức không thể nghĩ bàn nên Ngài là thể hiện cho đức cao quý,trí tuệ siêu việt,hình ảnh cao đẹp nhất trên cõi đời,khi chúng ta niệm Phật thường xuyên là nhớ nghĩ đến hình ảnh và công đức của Phật mà gieo vào tâm hồn sự trong sạch cao quý của Ngài mà làm cho tâm dần trở nên trong sạch,thanh tịnh.Nếu ngày đêm chuyên chú hướng tâm,thực hành miên mật,lấy Tín ,Nguyện,Hạnh làm hành trang và phát nguyện vãng sanh Cực Lạc thì chúng ta đang đem công hạnh, sở nguyện mà duyên với Phật A Di Đà, là làm đúng với hạnh nguyện của Ngài mà thành tựu ở tương lai nơi Cực Lạc quốc . A DI ĐÀ PHẬT.
Đức Phật dạy người Phật tử làm bất cứ việc gì phải hiểu ý nghĩa và tương ưng với Tánh giác,phải giữ tâm được tịnh cũng như vật phẩm cúng dường,Vì Phật là bậc giác ngộ,nên khi cúng Phật phải thành tâm,giữ chánh niệm như vậy mới có an lạc trong tâm mà dâng lên Đức Phật.
- Đức Phật A Di Đà là giáo chủ của thế giới Tây Phương Cực Lạc, với 48 lời đại nguyện muốn độ khắp chúng sanh đều đạt tới Niết Bàn. Với lòng Từ bi vô lượng công đức không thể nghĩ bàn nên Ngài là thể hiện cho đức cao quý,trí tuệ siêu việt,hình ảnh cao đẹp nhất trên cõi đời,khi chúng ta niệm Phật thường xuyên là nhớ nghĩ đến hình ảnh và công đức của Phật mà gieo vào tâm hồn sự trong sạch cao quý của Ngài mà làm cho tâm dần trở nên trong sạch,thanh tịnh.Nếu ngày đêm chuyên chú hướng tâm,thực hành miên mật,lấy Tín ,Nguyện,Hạnh làm hành trang và phát nguyện vãng sanh Cực Lạc thì chúng ta đang đem công hạnh, sở nguyện mà duyên với Phật A Di Đà, là làm đúng với hạnh nguyện của Ngài mà thành tựu ở tương lai nơi Cực Lạc quốc . A DI ĐÀ PHẬT.
A DI ĐÀ MẬT NGHĨA - ĐẠI ĐỨC THÍCH TRÍ HUỆ GIẢNG
A DI ĐÀ MẬT NGHĨA
Đây là bài giảng của thầy Thích Trí Huệ. Quý vị nên nghe hết nội dung
Bạn hiểu như thế nào về : "Chấp thủ cảnh giới". Bạn có chấp thủ cảnh giới không?.
Phật A DI ĐÀ là giáo chủ của Tây Phương Cực Lạc có mạng sống trường cửu không tính đếm được và quang minh chiếu sáng khắp hằng sa cõi Phật đông ,tây,nam, bắc nên có nghĩa là Vô Lượng Quang ,Vô Lượng Thọ, sau nầy do ân đức bất khả tư nghì nên mới có thêm nghĩa nữa là Vô Lượng Công Đức.Ngài có quang minh và oai thần thuộc hàng đệ nhất trong chư Phật,đây là do bổn nguyện công đức cầu đạo của Ngài đời trước và 48 Đại nguyện vĩ đại tiếp dẫn hóa độ toàn thể chúng sinh đều thành Phật.
- Câu niệm :Nam Mô A Di Đà Phật là một phép tu tập của Tịnh Độ Tông dựa vào tự lực của bản thân trên nền tảng Tín,Nguyện Hạnh và tha lực của Phật. Khi lâm chung mà vẫn nhất tâm niệm 10 câu Nam Mô A Di Đà Phật không gián đoạn tâm không tán loạn sẽ được vãng sanh về cõi Tây Phương Cực Lạc.Muốn có đủ tâm lực niệm Phật nhất tâm thì bình thường phải kiên trì niệm thường xuyên để câu Phật hiệu ăn sâu vào tâm thức vì khi lâm chung đối diện với đau đớn luyến tiếc,oan gia trái chủ đến đòi nợ thì không thể thực hiện được.Tóm lại danh hiệu A DI ĐÀ PHẬT là biểu tướng của Pháp thân Phật chứa đựng vô lượng vô biên công đức oai lực... là phương tiện Nhất Thừa cứu cánh viên mãn.A DI ĐÀ PHẬT.
Thứ Tư, 27 tháng 2, 2013
TU TẠI GIA
TU TẠI GIA
Tu có nghĩa là sửa. Tu rất khó, khó
nhất là tu tại gia, cho nên có câu : Thứ nhất tu tại gia, thứ nhì tu chợ, thứ
ba tu chùa. ở chùa có nhiều thiện duyên nên tương đối dễ tu. ở chợ lại khó tu
hơn một chút vì phải giữ lòng ngay thẳng, không gian manh lường cân tráo đấu; ở
nhà lại khó hơn nữa vì bạn ác rủ rê làm ta dễ bị sa đọa.
Quy y Tam
Bảo
Muốn tu
tại gia trước tiên ta phải quy y ‘Tam Bảo’, và khi ta quy y Tam Bảo thì vấn đề
lễ bái đối với ta rất quan trọng. điều thứ nhất trong hạnh nguyện của Phổ Hiền
Bồ tát là: ’Nhất giả lễ kính chư Phật’.
Có một lần
ở thành Vương xá, đức Thế Tôn thấy con gia chủ là Thi-Ca- la-việt (Thiện Sanh)
sáng nào cũng hướng 6 phương để đảnh lễ trong lúc đầu tóc áo quần đang còn ướt
sũng. đức Thế Tôn hỏi Thi-Ca-la-việt lễ lạy như thế để làm gì? Thì y thưa rằng
lễ lạy như vậy là chỉ để làm theo lời cha dặn trước lúc lâm chung.
Chúng ta
đôi khi cũng lễ lạy như vậy, lễ lạy theo thói quen khi bước chân vào chùa, lễ
lạy khi nghe tiếng chuông, nhưng chúng ta cũng không ý thức lễ lạy để làm gì,
và vì sao phải phải lễ lạy? Hoặc giả chúng ta lễ lạy để cầu xin mua may bán
đắt, cầu xin cho con cái thi đậu, cầu xin sức khỏe khi có người thân lâm bệnh.
Chúng ta thường chỉ biết lễ lạy với tâm nguyện cầu như thế. Chúng ta đã quên
mục đích cao cả khi chúng ta đã ’quy y Tam Bảo’là chúng ta phải học đạo của đức
Phật, hành đạo như đức Phật, mục đích là xoay đời sống hung ác của ta thành đời
sống từ bi, xoay xấu xa trở thành tốt đẹp. Chúng ta thường hay bạ đâu tính đó,
ham kinh doanh, ham làm tiền, ham danh vọng, nên đời sống của chúng ta do đó
không an lạc, chúng ta không được giải thoát. Khi một đệ tử đến cầu xin đức
Phật giải thoát cho y khỏi bao đau khổ, phiền não, thì đức Phật hỏi y: Ai ràng
buộc ngươi? Ai không cho ngươi được giải thoát?
Quy y Tam
Bảo là nương theo Tam Bảo để làm như đức Phật, để tu như đức Phật cho đến khi
được chánh đẳng chánh giác. Cho nên, khi chúng ta đã quy y Tam Bảo thì chúng ta
không lạy gốc cây, không lạy bờ sông, không cúng ông Táo. Nếu chúng ta vẫn làm
như vậy tức là chúng ta đã quên rằng chúng ta đã quy y Tam Bảo. Như vậy, chẳng
khác nào anh làm ruộng gieo giống ngoài đồng rồi bỏ đó, không chăm sóc, không
tưới bón, không vun quén, nếu chúng ta quy y Tam Bảo mà chúng ta không tu,
không học đạo, không làm theo đạo Phật. Nếu chúng ta nhận định sai thì một ngày
kia chúng ta phải thối tâm và sa đọa.
đức Phật
dạy một bài học cho chúng ta là: của cải không đem lại chân hạnh phúc. đức Phật
một hôm ngồi trên một đám cỏ ướt mà không lạnh, không thấy khổ, vì nguyên nhân
gây khổ đức Phật đã dứt từ lâu, nên đức Phật vẫn an nhiên tự tại, đức Phật bảo
rằng: nằm trong nệm ấm chăn êm mà lòng tham, sân, si không dứt, luôn luôn lo sợ
mất của thì vẫn đau khổ như thường.
Chúng ta
đôi khi quên mục đích quy y và lễ bái Tam Bảo của chúng ta, và nếu chúng ta chỉ
lễ bái với mục đích thỏa mãn lòng ham muốn tầm thường bất chính, thì chúng ta
không bao giờ đạt được mục đích cao cả kia. Ngày xưa có một anh thờ vị Thần Lã
tổ và trú dạ lục thời anh ấy đều hương hoa lễ bái kính cẩn, chí thành. Ông Thần
thấy anh kia tâm thành như vậy, rất cảm động, bèn hỏi anh ấy muốn cầu xin điều
gì, thì y đáp là muốn xin Thần cho một chén vàng vì nhà y nghèo quá. ông Thần
liền đưa ngón tay hóa phép và một chén vàng hiện ra cho y. Anh ta mừng quá! Vài
hôm sau anh ta lại tiếp tục hương hoa lễ bái thành khẩn như trước. ông Thần lại
hiện lên và lại hỏi anh ta muốn cầu điều gì? Anh ta liền thưa chén vàng nhỏ
quá, không đủ để chi dùng, xin thần cho y một bình vàng. ông Thần lại đưa ngón
tay ra chỉ và một bình vàng đầy ắp hiện ra. Anh ta mừng quýnh. Nhưng chẳng bao
lâu anh ta nghĩ rằng mình muốn nhiều thứ hơn nữa, mà mỗi lần cầu xin thì chỉ
được một thứ mất công lễ bái. Lần nầy anh ta sắm nhiều hương hoa, lễ bái nhiều
hơn trước và thành khẩn hơn trước. ông Thần thắc mắc quá, chẳng biết anh ta còn
muốn gì ? ông hỏi, con còn muốn cầu xin điều gì nữa ? Có phải con muốn đạo
không ? Hỏi năm ba lần anh ta mới thưa rằng ‘Chỉ muốn xin ngón tay làm phép của
Thần thôi’, ông Thần nổi giận đưa ngón tay chỉ một cái, tức thì nhà cửa, xe cộ,
của cải gì của anh ta cũng sụp đổ tan tành. Thế mới hay nếu chúng ta lễ bái với
mục đích cầu lợi lạc thì không bao giờ được thỏa nguyện, bởi lòng tham của
chúng ta vô bờ.
Lễ bái
đúng đắn
Nếu chúng
ta không rõ ý nghĩa của lễ bái thì việc lễ bái trở thành vô ích. Vì sợ sệt mà
lễ, vì lợi lộc mà lễ thì lễ Phật cũng như lễ gốc cây, bụi bờ không khác. đằng
này chúng ta lễ Phật vì kính trọng đức hạnh cao cả, vì phục sát đất tâm lượng
đại từ đại bi của đức Phật, trí huệ rộng lớn bao la của đức Phật. Chúng ta đã
quy y theo Phật thì tâm lượng ta cũng phải rộng rãi bao la, chúng ta cũng phải
có trí tuệ sáng suốt, như đức Phật, chúng ta cố gắng bỏ tánh tham lam bỏn xẻn
nhỏ mọn hẹp hòi. Biết rằng đồng tiền không đem lại hạnh phúc tuyệt đối, nó là
‘một đầy tớ trung thành và đồng thời cũng là một người chủ khắc nghiệt’(ngạn
ngữ Tây phương). Nếu chúng ta không để cho đồng tiền làm chủ thì đồng tiền mới
đem lại hạnh phúc cho ta. (Xem câu chuyện anh chàng nghèo khổ nhưng đã phát tâm
cúng dường tấm áo choàng duy nhất, rồi vừa la vừa chạy ‘được rồi, được rồi’ ;
gặp lúc vua ngự ngang qua, cho đòi lại hỏi cớ sự. Sau khi biết chuyện, vua khen
ngợi tấm lòng quảng đại của anh ấy và thưởng cho nhiều của cải).
Chúng ta
lễ Phật là để cảm ân đức Phật đã giáo hóa chúng ta, đã bày chế ra bao nhiêu pháp
môn phương tiện hầu dẫn dắt chúng ta đến Niết bàn, đến giải thoát. Phá trừ ngã
chấp là giáo lý cao quý nhất mà đức Phật dạy cho chúng ta. Có người tu lâu năm,
đạt được thần thông, bèn lên Thiên đường gõ cửa Thượng đế. Thượng đế hỏi ‘Ai đó
?’. Người kia đáp : ‘Tôi đây’. Thượng đế hỏi : Tôi là ai ? Người kia đáp : Tôi
là tôi. Thượng đế bảo : Nếu tôi là tôi và ông là ông thì ở đây không có chỗ cho
hai người cùng ở, hãy về đi. Người kia trở về tu nữa. Lần sau, khi gõ cửa Thiên
đường và Thượng đế hỏi : Ai đó ?- Tôi. Tôi là ai ? thì người kia đáp : Tôi là
Ngài. Thượng đế mới bảo : ‘hãy vào’. Cho nên khi chúng ta không phân biệt tôi,
anh, khi chúng ta không chấp cái ‘ta’thì bao nhiêu người cũng như một, đều sống
chung với nhau, hòa thuận vui vẻ.
Đứa bé mới
ra đời chưa biết gì. đến một tuổi cha mẹ mới đặt cho một cái tên, có khi một
cái tên rất xấu xa, và dần dần nó chấp chặc cái tên đó là mình, một khi có ai
gọi cái tên ấy mà tán thán, khen ngợi thì nó lại thấy sung sướng, phấn khởi.
Sau này khi lớn lên, khi nghe người khác xưng hô với mình thiếu lịch sự thì lại
phiền muộn. Vì một cái tên bông lông, không đâu mà mình cứ đau khổ, sống chết
luân hồi triền miên với nó ? Nếu tin hiểu được lời Phật dạy : ‘Vạn pháp đều như
hóa như huyễn’thì ta không bao giờ đau khổ nữa, không phiền muộn nữa. Cái danh
xưng là giả tạm, cái thân là giả hợp, nếu chúng ta hiểu được như vậy, tất chúng
ta an lạc, giải thoát (danh xưng như huyễn vô ngã).
Khi lễ
Phật, chúng ta nguyện gì ? Nguyện tiêu tam chướng, trừ phiền não, nguyện trí
huệ viên mãn, nghiệp chướng tiêu trừ, nguyện thường hành Bồ tát đạo. đó là đem
lại an lạc cho mình, cho nhân loại, cho chúng sanh. Cái an lạc này là an lạc từ
trong tâm mà ra, từ trong lòng mình phát ra. đức Phật dạy chỉ cái an lạc phát
ra từ trong lòng mình mới là cái an lạc chân thật, còn cái an lạc từ ngoài mà
có thì cái an lạc ấy là giả tạo.
Ta lễ bái
10 phương để làm gì ? và ta lễ ai ? Tức là ta lễ tất cả biến pháp giới : Nhất
nhất biến lễ sát trần Phật. Tức ta cầu tất cả các đức Phật hộ trì để ta : a)
diệt trừ được bốn nghiệp phiền não (sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói dối), b)
diệt trừ bốn lý do làm ác (tham lam, sân hận, ngã mạn, ngu si), c) trừ bỏ sáu
nguyên nhân phung phí tài sản (cờ bạc, rượu chè, giao du đường phố phi thời, la
cà đình đám hí viện, giao du ác hữu, quen thói lười biếng). Như vậy vấn đề lễ
bái mới chính đáng.
Kinh đức
Phật dạy cho người tại gia. Nếu ai học được đúng đắn sẽ trở thành người tốt
nhất. Ngài dạy rằng người tu tại gia cần biết tích lũy tài sản như con ong, như
đụn mối. Tiền của chia thành 4 phần: một để tiêu pha, hai phần làm vốn, một
phần để dành khi gặp tai biến, khó khăn, làm việc từ thiện cúng dường. Chúng ta
đã có nhiều công phu học Phật pháp nhưng ít khi nghe được một pháp vừa như ly
sữa ngon ngọt cho trẻ thơ, như bữa ăn ngon cho người lớn, như bữa ăn bổ dưỡng
cho người già cả. Ngài dạy dỗ chúng sinh không phân biệt, lời dạy chung, không
bỏ ai, không chọn lựa ai; ai cố gắng nghe, thì hành trì được giải thoát trọn
vẹn. Mọi căn cơ đều có pháp môn thích hợp.
Sáu nguyên
nhân phung phí tài sản
Nhân một
buổi sáng đức Phật đi khất thực, thấy chàng Thiện Sanh, con gia chủ, hướng sáu
phương lễ bái, đức Phật liền dạy muốn cho việc lễ bái có ý nghĩa, trước tiên
không làm 4 hạnh ác là tham, sân, si, mê; sau đó tránh xa 6 nguyên nhân phung
phí tài sản mà ở đời ít ai tránh khỏi. đó là:
1. Đam mê
rượu: có sáu điều bất lợi là tài sản bị hao tổn, ưa đấu tranh, tật bệnh dễ xâm
nhập, thương tổn danh dự, để lộ thân tàng, trí huệ thương tổn, tâm trí không
bình tỉnh (Câu chuyện một vị ưu bà tắc vô tình uống lầm rượu mà phạm mọi giới:
ăn cắp gà, sát sanh, tà dâm, nói dối);
2. Du hành
đường phố phi thời: không ai che chở cho mình, không ai hộ trì gia đình, tài
sản không ai trông nom, bị tình nghi tác giả các ác sự, nạn nhân các tin đồn
thất thiệt, tự rước vào thân nhiều khổ não;
3. La cà
đình đám hí viện: tâm mơ tưởng vui chơi, bỏ bê vợ con,xao lãng công ăn việc
làm, hao tổn tiền bạc;
4. Đam mê cờ bạc: nếu thắng thì gây
thù oán, nếu thua thì tâm sanh phiền muộn, tài sản bị hao thất, gây ra tranh
chấp đánh lộn, tại hội trường lời nói không ai tin, bạn hữu khinh khi, vấn đề
cưới gả không được tín nhiệm;
5. Thân cận ác hữu: đó là những bạn
cờ bạc, bạn loạn hành, người nghiện rượu, kẻ bạo động, người lừa gạt;
6. Quen thói lười biếng: luôn luôn
kiếm cớ để từ chối làm việc (quá nóng, quá lạnh, quá trễ, quá đói, quá no).
Chọn bạn
lành mà chơi
Đức Phật
dạy phải chọn bạn như thế nào? Chọn thiện hữu tri thức mà giao du, nghĩa là
người bạn lành. Có nhiều loại bạn: bạn rượu, bạn cờ bạc, bạn cơ hội, bạn mồm.
Bạn giúp mình lúc hữu sự mới đúng là bạn tốt. Ác hữu là bạn cờ bạc đam mê héo
mòn như trăng khuyết, nợ nần như chìm trong bồn nước. Làm bạn thế nào cho xứng
đáng mới đúng là tự giác giác tha.
Có bốn
hạng người không phải là bạn: đụng vật gì cũng lấy, chỉ biết nói giỏi, khéo
nịnh hót, tiêu pha xa xỉ, sợ thế lực, cho ít xin nhiều. Bạn vì mưu lợi, tỏ lộ
thân tình trong việc đã qua, hoặc việc chưa đến, mua chuộc cảm tình bằng sáo
ngữ; khi có công việc tự tỏ bất lực; đồng ý các việc ác, không đồng ý các việc
thiện; trước mặt thì tán thán, sau lưng lại chỉ trích. Tiêu pha xa xỉ, cờ bạc
rượu chè, vui chơi bê tha, đình đám, du hành đường phố phi thời: người trí sẽ
tránh.
Bạn nên
có: người bạn giúp đỡ mình khi hữu sự, khuyên điều lợi ích, người bạn chung
thủy, có lòng thương tưởng tới mình. Mình muốn làm bạn với ai mình cũng cần 4
điều tốt ấy: khuyên nhủ bạn khi bạn vô ý phóng dật, che chở cho bạn, làm chỗ
nương tựa cho bạn khi bạn có điều sợ hãi, giúp thành hai lần khi bạn thiếu thốn
(câu chuyện Lưu Bình Dương Lễ). Người bạn trong nạn khổ cũng như lúc vui, thổ
lộ tâm tình, giữ gìn những điều bí mật của bạn hoặc tốt hoặc xấu, không bỏ ban
khi bạn gặp khó khăn, dám hy sinh thân mạng vì bạn. Có câu‘Bần cư náo thị vô
nhân vấn, Phú tại thâm sơn hữu viễn thân’: có nghĩa là khi nghèo nếu ở ngoài
chợ cũng không ai hỏi, lúc giàu nếu có ở núi sâu cũng lắm kẻ tìm đến. đó cũng
không phải là bạn.
Đức Phật
là người bạn không mời: Ngài không chấp chứa tiền của, Ngài đã diệt trừ lòng
kiêu mạn, đi làm bạn với tất cả mọi người. Trong sự không nói, Ngài nói rất
nhiều. Ngài đã diệt trừ lòng tham, chỉ ăn một bữa ngọ; khất thực buổi sáng
(Ngài không khất thực buổi chiều), bình đẳng không lựa chọn. Có người chỉ trích
Ngài chỉ đi khất thực, không làm lấy mà sống, Ngài đáp lại rằng Ngài cũng đang
gieo trồng đây: Trong việc khất thực Ngài gieo hột giống từ bi; Ngài cũng cày
bừa: cái cày là tinh tấn, cái bừa là nhẫn nhục, con trâu là thiền định; Ngài
cho bạn nghe những điều chưa được nghe, chỉ cho bạn biết con đường lên cõi chư
Thiên.
Bạn tốt là
người không hoan hỉ khi bạn mình gặp nạn, hoan hỉ khi bạn mình gặp may mắn, cản
ngăn khi nghe người khác nói xấu bạn mình. Bạn như hoa, bạn như cân: không phải
là bạn. Bạn như hoa là bạn vì danh vọng, vì giàu có, vì lợi lộc. Bạn như cân là
bạn luôn luôn đòi hỏi sự cân xứng cả hai bên, cân qua cân lại, giúp qua giúp
lại, mới làm bạn. Bạn như đất, mới đúng là bạn tốt: tâm thành thiết tha, giúp
cho bạn mình được lợi ích, không ganh tị, mà hoan hỉ (như đám đất). Ngược lại,
khi bạn sa cơ, nghèo khổ, mình vẫn như như, không bỏ bạn, đó là bạn chắc thật.
Không nên gần gũi những người mà mình không coi như bạn thiết, để khỏi bị dẫn
dắt vào đường hư hỏng, biếng nhác. Mình làm bạn với ai cũng vậy, thiệt tâm giúp
đỡ bạn. Khi bạn bị thất sủng, mình không bỏ. đó là bắt đầu cơ bản để đi đến
việc lễ bái sáu phương có ý nghĩa như sau đây.
Sáu phương
lễ bái
Đó là:
Phương đông chỉ cha mẹ, phương nam chỉ sư trưởng, phương Tây chỉ vợ chồng,
phương Trên chỉ tôn sư (Sa môn, Bà la môn), phương Bắc chỉ bạn bè và phương
Dưới chỉ người giúp việc.
Chúng ta
phải liên quan với sáu mặt mới sống được, sáu phương đó tương quan mật thiết
với chúng ta. Nếu cắt đứt với sáu tương quan này thì chúng ta không thể sống
được. Mình sống đây là sống tương quan với sáu hạng người, vậy ta cư xử thế nào
cho đúng, theo lẽ phải, theo luật pháp?
1. Phương
đông: Làm con phải phụng dưỡng cha mẹ, có bổn phận hầu hạ sớm tối, bảo vệ tài
sản của cha mẹ, lo lễ tang khi cha mẹ qua đời. Cha mẹ nuôi con với tình thương,
con cũng phải phụng dưỡng cha mẹ với tình thương, sớm tối viếng thăm, cung kính
giữ gìn truyền thống gia đình. Ngược lại, cha mẹ cũng có 5 bổn phận đối với con
cái: cưới vợ gả chồng, lo nghề nghiệp cho con, ngăn ngừa không cho con giao du
với bạn xấu, con hư là cha mẹ có một phần trách nhiệm, trao của cải sự nghiệp
cho con khi đúng thời. Lòng thương không sáng suốt làm cho con hư hỏng. Chọn
nơi xứng đáng làm vợ làm chồng cho con. Ngày xưa các bậc cha mẹ chọn nơi môn
đăng hộ đối, để lại lời than trách của các con, xui con vào đường tì thiếp.
Không nên vì tham lam mà đưa đẩy con vào đường xấu xa. Ân và oán là do trong
gia đình mà ra, khéo tu là hạnh phúc, không tu là dây oan. Như vậy là phương
đông được che chở, không có chi sợ hãi.
2. Phương
Nam: Ta phải phụng sự Sư trưởng như phụng sự cha mẹ ‘Tiên học lễ, hậu học văn’,
chào hỏi thăm viếng ân cần, hầu hạ Sư trưởng, hăng hái học tập. Ngược lại Sư
trưởng có bổn phận huấn luyện đệ tử như mình đã được huấn luyện, thương đệ tử,
khen đệ tử khi đệ tử học giỏi, đảm bảo nghề nghiệp cho đệ tử. Như vậy, phương
Nam được che chở, không có chi sợ hãi.
3. Phương
Tây: đối với vợ, người chồng phải kính trọng, không bất kính, thủy chung, giao
quyền hành cho vợ, sắm đồ nữ trang cho vợ, khuyên răn giáo dục vợ khi vợ hổn
hào, như chuyện sau đây: Có một chàng kia gặp chị vợ hỗn hào quá, luôn luôn
chửi mắng chồng, nguyền rủa chồng khi có điều gì không vừa ý. Chàng ta mới đi
mua về một cái hòm để trong nhà. Chị vợ hỏi: Mua hòm để làm gì? Chàng ta đáp là
mua về để chôn anh khi anh chết, vì có thể anh chết thình lình chưa biết khi
nào. Và mỗi lần chị vợ chửi rủa chồng thì anh đánh thình thịch trên quan tài và
khóc rống lên: Chàng ơi, sao chàng chết đi, chàng nỡ bỏ thiếp bơ vơ một mình,
không ai giúp đỡ, không ai trông nom, bảo vệ thiếp? Và chàng cứ khóc hoài thảm
thiết cho đến khi chị vợ ngưng mắng mỏ, chàng mới thôi khóc. Và vài ba lần như
vậy, chị vợ suy nghĩ lại, thấy mình hỗn hào với chồng thật là không nên, và từ
đó, không bao giờ chị ta mắng mỏ chồng nữa. đó là một cách giáo dục vợ, đem lại
kết quả tốt đẹp. NgườI vợ đối với chồng cũng phải làm hết bổn phận: khéo đón
tiếp bà con chồng, trung thành với chồng, giữ gìn của cải, khéo léo làm mọi
việc trong gia đình. Như vậy, phương Tây được an ổn, che chở, không chi sợ hãi.
4. Phương
Bắc: Không lường gạt thì được bạn bè thương tưởng; che chở bạn, bảo vệ tài sản
cho bạn, trở thành chỗ nương tựa cho bạn; không tránh xa khi bạn gặp khó khăn;
kính trọng gia đình bạn. Như vậy, phương Bắc được che chở lẫn nhau, không ai sợ
ai.
5. Phương
Dưới: đối với người giúp việc, lo lắng ăn uống và tiền lương đầy đủ. Bắt làm
việc nhiều mà trả lương ít coi như mắc nợ người ta vậy; điều trị người giúp
việc khi có bệnh hoạn, ốm đau; có miếng ăn ngon chia xẻ cho người giúp việc;
thỉnh thoảng cho nghỉ phép. Như thế người giúp việc sẽ trờ thành bạn với
mình;nếu không đối xử đúng đắn, người giúp việc sẽ trở thành người thù đối với
mình. Ngược lại, đối với chủ, người giúp việc phải thức khuya dậy sớm, thức
trước khi chủ thức dậy và đi ngủ sau chủ, tự bằng lòng với các vật chủ cho,
khéo đảm đang công việc, không phải làm cho lấy có; đem danh tiếng tốt về cho
chủ. Như vậy, chủ xứng đáng mà tớ cũng xứng đáng, và phương Dưới được che chở,
không có chi phải sợ hãi.
6. Phương
Trên: đối với Sa môn, Bà la môn, chúng ta phải có lòng từ, hành động tốt về
thân, khẩu và ý; mở rộng cửa để đón Sa môn và Bà la môn, cúng dường các vật
dụng cần thiết. Sa môn và Bà la môn đối với chúng ta thì có lòng thương tưởng
chúng ta, ngăn không cho làm điều ác, cảnh giác khuyên răn, khuyến khích làm
điều thiện, làm cho thanh tịnh những điều đã nghe; thương xót chúng sanh với
tâm từ bi; là thiện tri thức của chúng ta, dạy chúng ta những điều chưa nghe,
chưa biết, làm cho rõ ràng để thực hiện cho được, đó là pháp thanh tịnh, làm
cho chúng ta hoàn thành đạo Nhân thừa. Như vậy, phương Trên che chở, hai bên
trở thành nơi nương tựa cho nhau, che chở cho nhau.
Trên đây là pháp Lễ bái đầy đủ sáu
phương theo kinh Thiện Sanh và để kết luận, đức Phật nói bài kệ:
Cha mẹ là
phương đông
Sư trưởng
là phương Nam
Vợ chồng
là phương Tây
Bạn bè là
phương Bắc
Nô bộc là
phương Dưới
Sa môn, Bà
la môn
Có nghĩa
là phương Trên
Cư sĩ và
gia đình
đảnh lễ
phương hướng ấy
Kẻ trí giữ
giới luật
Từ tốn và
biện tài
Khiêm
nhường và nhu thuận
Nhờ vậy
được danh xưng.
Dậy sớm
không biếng nhác
Bất động
giữa hiểm nguy
Người hiền
không phạm giới
Nhờ vậy
được danh xưng.
Nhiếp
chúng tạo nên bạn
Từ ái tâm
bao dung
Dẫn đạo
khuyến hóa đạo
Nhờ vậy
được danh xưng.
Bố thí và
ái ngữ
Lợi hành
bất cứ ai
Đồng sự
trong mọi việc
Theo
trường hợp xử sự
Chính
những nhiếp sự này
Khiến thế
gian xây quanh
Như bánh
xe quay lăn
Vòng theo
trục xe chính Nhiếp
sự này
vắng mặt
Không có
mẹ hưởng thọ
Hay không
cha hưởng thọ
Sự hiếu
kính của con
Do vậy bậc
có trí
Đối với
nhiếp pháp này
Như quan
sát chấp trì
Nhờ vậy
thành vĩ đại
Được tán
thán danh xưng.
Tròn bổn
phận đối với sáu phương hướng tức là lễ bái sáu phương, hợp với giáo lý đức
Phật là từ tốn và biện tài.
Đức tính
từ tốn là không tranh thắng với ai, không vội vã. Biện tài là muốn lợi ích cho
mình và cho người khác thì tìm lời nói năng khéo léo, dùng tài hùng biện để
thuyết phục người, lời nói đủ ý nghĩa, trúng căn cơ để chuyển tâm người.
Căn bổn
tâm chúng sanh là: tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến. Mạn có bảy thứ: 1.Mạn: cứ
đem tâm so sánh hơn thua trong ý nghĩ mình hơn người; 2. Ngã mạn: vì ỷ mình mà
lấn lướt người; 3. Quá mạn: mình bằng người mà cho là hơn, người hơn mình mà
cho là bằng; 4. Mạn quá mạn: người hơn mình nhiều, mà cho mình là hơn người; 5.
Tăng thượng mạn: chưa chứng Thánh quả mà cho mình đã chứng; 6. Ty liệt mạn: mình
thua người nhiều mà nói rằng thua ít; 7. Tà mạn: người tu về tà đạo được chút
ít thần thông, hoặc hiểu biết đôi chút việc quá khứ vị lai, rồi khinh lướt
người.
Do đó,
muốn chuyển tâm phàm của chúng sanh thành Tâm thánh thì người ta phải tu học
đức tính từ tốn và biện tài của đức Phật. Ta còn phải học tính ‘bất động trước
hiểm nguy’ của đức Phật nữa. Nếu ta phá được ngã chấp và ngã sở thì ta mới bất
động trước hiểm nguy, và nếu còn chấp ngã và ngã sở thì cái khổ càng dày vì cứ
sợ thiệt hại, mất mát. Vì sao nhà ta cháy ta đau đớn khổ sở, còn nhà người khác
cháy ta vẫn an nhiên như không xãy ra việc gì?
Khi ta
chấp một cái danh hư huyễn làm cái ta, thì ta cứ đau khổ liên miên khi cái danh
xưng ấy bị gièm xiểm. Xưa có một vị Thiền sư đang tụng kinh thì có tên trộm lẻn
vào gí dao vào lưng, hỏi: - Tiền để đâu? Thiền sư: đừng có lấy hết, hãy để lại
một ít để đóng thuế. Tên trộm được tiền ra về. Thiền sư gọi giật lại, hỏi sao
không cám ơn khi người ta cho mình tiền của? Tên trộm liền cảm ơn...Vài hôm sau
tên trộm bị bắt giải lên huyện; ông Huyện cho mời Thiền sư đến và hỏi Thiền sư
bị mất trộm bao nhiêu? Thiền sư bảo không bị mất trộm. ông Huyện bảo Thiền sư:
Sao đã tu hành mà còn nói dối, vì tên trộm cung khai là đã lấy tiền của Thiền
sư. Thiền sư đáp: Tên trộm đã được tôi cho tiền và y đã cảm ơn, chớ không lấy
trộm... Do đó, tên trộm đã được tha về. Cho hay đối với của cải mà mình đã xả
rồi thì mình không còn sợ hiểm nguy. Mình dùng cái ngã của mình để tu hành, nên
gặp nguy hiểm mình không sợ; còn coi nặng cái ngã và ngã sở thì còn mang nhiều
đau khổ. Việc này rất cao siêu và khó học tập, nhưng nếu ta cố gắng tinh tấn
học tập thì thế nào cũng đạt được kết quả mong muốn.
Người giúp
việc vấp té, lỡ tay làm bể bát cổ. Bà chủ hỏi: Con té có đau không? Như vậy là
bà có đức độ bao dung, biết thương người mà không tiết của. Xưa có một vị Lang
y giỏi nổi tiếng, có một người kia có mẹ già bệnh nặng, cứ chầu chực mấy ngày
liền mà không rước được thầy lang. Y bèn quỳ giữa đường và đón xe thầy ngang
qua. Thầy lang buộc lòng phải đến chữa bệnh cho mẹ y. Thầy cho hai thang thuốc
và bảo y ngày hôm sau cho thầy biết kết quả. Hôm sau y đến thưa rằng mẹ y đã
bớt bệnh nhiều, nhưng chắc chết. Thầy ngạc nhiên hỏi: Sao bớt bệnh mà lại chắc
chết, thuốc thầy chưa bao giờ làm cho ai chết cả. Y thưa: Mẹ y không phải chết
vì bệnh mà chết vì mất của, tiếc của. Nguyên mẹ y đã để dưới gối một lượng
vàng, mà nay không còn nữa. Nếu tìm lượng vàng không ra thì mẹ y chắc chết.
Thầy lang liền mở tủ, lấy một lượng vàng, bảo y cầm về đưa cho mẹ. Hôm sau mẹ y
lành bệnh rũ chiếu giường, thì tìm thấy lượng vàng, biết mẹ con y đã nghi oan
cho thầy lang, liền đem vàng đến trả và lạy tạ, xin sám hối tội lỗi. Như thế,
thầy lang đã có đức đại lượng bao dung, chịu mang danh ăn cắp, chịu mất một
lượng vàng, chỉ muốn cứu sống một mạng người. Cho nên muốn dẫn đạo, để khuyến
hóa đạo, ta phải có lòng đại độ bao dung và muốn nhiếp phục chúng sanh quay về
với Phật pháp, ta cần thực hành theo Tứ nhiếp pháp.
Tứ nhiếp
pháp
Tứ nhiếp
pháp là những gì ? ấy là : bố thí, ái ngữ, lợi hành và đồng sự.
1. Bố thí
nhiếp : Có ba cách bố thí : tài thí, pháp thí, vô úy thí.
a. Tài thí
:có nội tài (bố thí chính ngay thân mạng mình- cho máu để tiếp người bệnh nhân)
và ngoại tài (cho tiền bạc của cải). Tài thí có nhiều cách : định kỳ thí, cấp
thời bố thí (một miếng khi đói bằng một gói khi no), hợp lực bố thí (kêu gọi
hợp lực cùng nhau làm, vì một mình không đủ phương tiện), kính cẩn bố thí (kính
cẩn đối với người mình bố thí).
Bố thí thì
cần xét đến : tâm bố thí, của đem bố thí và người mình bố thí. Tâm phải là tâm
thanh tịnh nghĩa là trong sạch, không phải cầu danh, hoan hỉ khi đang bố thí và
mừng rỡ sau khi bố thí. Của bố thí phải là của thanh tịnh, nếu là của không
trong sạch (ví dụ của ăn cướp) thì không phước đức. Xứng cảnh trí tức là người
mình nên bố thí, cúng dường giống như ba thứ ruộng phước : kinh điền (người
đáng tôn trọng), ân điền (người có ân với mình như cha mẹ, sư trưởng) và bi
điền (người đáng thương xót).
Khó có
người giàu có như ông Cấp cô độc đem vàng trải ở Kỳ viên, nhưng người nghèo
cũng có thể bố thí được. Như anh kia thấy người ta cúng dường trai tăng, anh
chỉ kiếm ra được một ít đậu, bèn đứng vào một xó. Lúc người ta đang tác bạch,
thì thấy đậu trãi đầy bàn ăn, mọi người đang tìm hiểu, thì đức Phật trông thấy
y đang đứng trong góc phòng, đức Phật gọi anh ta là ‘đại thí chủ’. Mọi người
liền mời y ra cùng dự chung. Anh ta chỉ bố thí với tâm thành khẩn, không kể
mình thấp kém.
Có chị ở
giúp việc cho người ta, rất muốn cúng dường đức Phật. Chị nghèo quá, chỉ kiếm
được một miếng bột, bèn gói trong lá, đem nướng đi, và ước ao cúng dường đức
Phật, chỉ sợ đức Phật không nhận. Không ngờ đức Phật nhận và bóc bánh ra, ăn
liền trước mặt chị. Chị ta sung sướng hết sức.
b. Pháp
thí : Trong khi tài thí giúp đỡ sắc thân thì pháp thí có công năng giúp đỡ cho
pháp thân, huệ mạng. Nếu không có pháp nuôi dưỡng thì pháp thân heo mòn, trái
lại thì pháp thân tăng trưởng. Việc pháp thí rất khó vì nếu ta không biết pháp,
không học pháp thì lấy đâu để pháp thí ? Cho nên đức Phật thường bảo đệ tử đem
giáo lý của đức Phật phổ biến cùng khắp.
đối với
người đau khổ về tinh thần thì cần pháp thí. Có một chị đi lấy chồng, lâu lắm
mới có một đứa con. Khi con mới lên ba thì chồng qua đời, và sau đó ít lâu, đứa
con bỗng chốc bị trúng gió, chết mất. Chị ta đau đớn vô cùng và không tin là
con mình đã chết. Chị bồng con đi xin thuốc chữa. Với tâm sầu khổ, chị đến gặp
đức Phật và xin đức Phật cứu sống con chị. đức Phật bảo chị đi xin hột cải tại
nhà nào chưa có người thân chết đem về để đức Phật cứu cho. Chị đến từng nhà
xin hột cải, nhưng khi chị hỏi trong nhà đã có ai chết chưa, thì người nào cũng
đáp là nhà đã có người chết. Và cuối cùng chị đến một nhà vừa có con nhỏ chết.
Chị ta liền giác ngộ, bèn đem con về chôn cất. Hôm sau chị đến bạch Phật rằng
việc Ngài dạy con đã làm xong, và xin đức Phật chứng minh cho.
Như vậy
Ngài đã dạy pháp để chị ta tự tu, tự chứng ; nếu lúc bấy giờ giảng lý thì không
hợp, trong lúc chị ta đang đau khổ. Trong khi đi xin hột cải thì chị ta đã trực
tiếp chứng được lý vô thường của vạn vật. Chúng ta học đạo là để chất chứa Phật
pháp ngõ hầu khi gặp lại tai biến mà tiêu dùng, như chất chứa tiền của vậy.
Vô úy thí
: Là đem cái không sợ ra thí cho chúng sanh. Ta không giết hại vật thì vật gần
mình không sợ hãi, ta không trộm cắp thì người khác không sợ mình lấy cắp của
người. Vả lại còn biết hy sinh giúp người cứu vật trong lúc hoạn nạn tai biến.
2. Ái ngữ
nhiếp : Tùy theo căn tánh chúng sanh mà khôn khéo nói năng, an ủi khuyên lơn
nhân thế khiến cho họ sanh lòng thân mến, rồi từ đó họ mới theo ta mà học đạo ;
lời nói khéo léo, ôn tồn, nhẹ nhàng đem lại an lạc cho tâm ta và mọi người.
Có anh kia
đi cày, ngủ trưa, quên cột trâu. Một con hổ từ trên xuống núi đi xuống. Trâu
đến đánh thức chủ dậy để báo động. Mất ngủ, anh kia bèn đánh đuổi trâu. Trâu
kia sợ hổ ăn thịt chủ, bèn chồm lên mình chủ để đỡ cho chủ. Anh đi cày giận
quá, cho là trâu trở chứng, liền bỏ buổi cày, dẫn trâu về. Dọc đường gặp đức
Phật, trâu khóc. đức Phật vỗ về trâu, lấy lời dịu ngọt dỗ dành khiến trâu hết
đau khổ và làm cho anh cày giác ngộ. ái ngữ, trong ái ngữ nhiếp không phải là
lấy lời dịu ngọt để nịnh hót cốt làm lợi cho mình. ái ngữ ở đây cốt lợi cho
người khác.
3. Lợi
hành nhiếp: Làm những việc có lợi cho người khác. Bất cứ việc nhỏ hay lớn, nếu
biết làm thì mới có giá trị lớn. Kinh Lăng nghiêm có đoạn kể Ngài Trì địa Bồ
tát chuyên đi sửa đường, sửa cầu, gánh đồ giùm cho mọi người. Có một vị hòa
thượng kể câu chuyện đã có lần cùng với quý thầy đi ngang qua một cánh đồng.
Nắng gắt và khác nước, mọi người dừng lại nghỉ chân ăn uống. Nhân ăn xoài, quý
thầy ương những hột xoài tại chỗ. Mấy năm sau có việc, hòa thượng cùng quý thầy
lại đi qua chỗ cũ, thấy mấy cây xoài đã bắt đầu có quả ăn. đó cũng là một việc
lợi hành mà ít ai để ý làm.
4. Đồng sự
nhiếp: Cùng làm một việc với người khác. Tùy theo mỗi người làm một việc nhưng
cùng nhắm một mục đích (ví dụ: xây dựng gia đình, cùng nhau đẩy một chiếc xe
lên dốc, nếu không cùng đẩy là không cùng sự). Có đồng sự thì nói gì người ta
cũng nghe mình.
Có bốn sự
nhiếp này thì thế giới hòa bình, gia đình an lạc. Bốn sự nhiếp này vắng mặt thì
con cái không hiếu kính cha mẹ, anh em không sống hòa hiệp với nhau. Làm được
bốn nhiếp sự này thì được danh xưng, mọi người tán thán.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)